Bermuda - Chương 139
Đầu óc Hugo càng lúc càng rối bời khi cố gắng xác định vị trí.
Theo lời các điều tra viên thì di tích trên bán đảo là di tích cổ đại đã được xây dựng từ hơn 700 năm trước. Nếu vậy thì Mẫu thể được xem là mục đích xây dựng nên di tích này cũng đã tồn tại ít nhất từ 700 năm trước, và vẫn sản sinh ra các kỳ hình chủng cho đến tận gần đây.
Liệu có thể gọi một thứ như thế đơn thuần là ma thú được không?
Hugo không thể đưa ra phán đoán chính xác để định nghĩa về thân phận của Mẫu thể, kẻ mà sinh mệnh vẫn chưa tận sau quãng thời gian đằng đẵng đó.
Hơn nữa anh không tài nào đoán ra được theo lẽ thường rằng ai, vào khi nào, đã kỳ công xếp từng viên đá để tạo nên ma pháp trận khổng lồ bao phủ toàn bộ bán đảo này nhằm phong ấn nó, rồi làm cách nào chuyện đó có thể thực hiện được vào thời xa xưa ấy, và tại sao cho đến nay lại chưa từng có một câu chuyện nào liên quan được lưu truyền lại.
Ngay lúc Hugo đang đau đầu vì những nghi vấn cứ dồn dập ập đến không hồi kết ấy, thì Meterion đang lặng lẽ nhìn tấm bản đồ và ma pháp trận được dựng lên chợt ngẩng đầu nhìn về phía bầu trời bên trên những kiến trúc. Cùng lúc đó, Bruno cũng nhìn theo hướng ấy rồi phát hiện ra ai đó và lên tiếng.
“Có vẻ Đại Đội trưởng Molton đã đến rồi.”
Từ phía xa nơi ánh mắt Bruno hướng tới, những chỉ huy khác đang bay về phía này. Trong số đó, tốc độ của kẻ dẫn đầu thật sự không bình thường chút nào.
Anh ta dường như sử dụng dịch chuyển liên tục nên vị trí cứ thay đổi theo từng giây, rồi trong nháy mắt, một luồng sáng lóe lên và anh ta hiện ra ngay trên bầu trời doanh trại.
Ánh mắt đang hướng về phía chân núi của Hugo cũng vừa nhìn thấy anh ta, anh ta liền đáp ngay xuống mặt đất và thả người đang kẹp bên hông xuống hệt như vứt một kiện hành lý. Sau đó, anh ta giơ tay chào Hugo và Bruno rồi nói.
“Trung thành, Đội trưởng Đại đội 9 thuộc chi nhánh phía Nam của Hội đồng, Reiner Molton. Xin lỗi vì tôi đến muộn.”
“Reiner, mau lại đây.”
Bruno vui mừng đón tiếp anh ta như thể đã đợi từ lâu. Reiner khẽ cúi đầu đáp lại sự chào đón nồng nhiệt ấy rồi kéo viên Điều tra viên cao cấp đang say sóng nặng nề do bị anh ta xách đi thô bạo lại đứng trước mặt các chỉ huy. Bruno nhìn anh ta rồi hỏi.
“Cậu có mang theo thứ đã báo trước với tôi không?”
“Vâng, trước mắt tôi chỉ mang theo một phần thôi.”
Reiner vừa trả lời vừa quay sang nhìn viên Điều tra viên cao cấp, nhưng người này đang kêu than chóng mặt và hoàn toàn không tỉnh táo nổi. Nhìn bộ dạng đó với vẻ không hài lòng, Reiner giật lấy tập tài liệu ghi chép trên tay cậu ta rồi đưa cho Bruno.
Bruno lo lắng nhìn viên điều tra viên một chút rồi nhận lấy tài liệu, nhanh chóng lướt qua nội dung ngay tại chỗ. Một lát sau, anh ta gật đầu rồi đưa nó cho Hugo và nói.
“Tổng Quân đoàn trưởng, ngài phải xem cái này.”
Trước câu nói có phần cứng rắn là ‘phải xem’ chứ không phải ‘hãy xem’, Hugo lộ vẻ thắc mắc rồi đón lấy tập tài liệu đang mở. Khi ánh mắt Hugo hướng vào những dòng chữ chi chít, Reiner nhìn anh và bắt đầu lên tiếng.
“Theo mệnh lệnh của Tổng Quân đoàn trưởng, tôi và Đại đội 9 đã truy tìm người mất tích và truy đuổi lũ Dermokas di chuyển xuống phía Nam trong suốt ba ngày qua. Trong lúc đó, tại một di tích nằm ở phía Đông Nam so với vị trí này, chúng tôi đã tình cờ phát hiện ra những ký tự cổ được khắc trên một tấm bia đá rộng và bằng phẳng.”
Hugo vừa nghe Reiner nói vừa bắt đầu xem xét nội dung được ghi chép. Dòng trên là ký tự cổ, còn dòng dưới là nội dung đã được dịch sang ngôn ngữ Laina Rogia. Có lẽ các thám hiểm viên của Đại đội 9 đã thực hiện việc này.
Thứ đầu tiên lọt vào mắt anh là niên đại ‘Lịch Laina năm 938’. Ấn đường anh khẽ nhíu lại. Thời điểm đó là ngay trước khi Laina Rogia được thành lập, tức là phải ngược dòng thời gian về khoảng một nghìn năm trước so với hiện tại.
Reiner nhìn về cùng một hướng với anh và nói thêm.
“Có lẽ mục đích cuối cùng của cuộc chinh phạt này của chúng ta cũng giống với họ.”
Hugo ngẩng đầu lên nhìn vào mắt Reiner trong thoáng chốc. Sau đó anh lại dời mắt xuống thứ đang cầm trên tay và bắt đầu đọc nhanh.
…Ngày 17 tháng 7. Chúng ta vừa không ngừng chém giết lũ chúng nó vừa di chuyển xuống phía Nam dọc theo chân núi Eindel. Khi đến Ferman xưa cũ giờ đã biến mất, chúng ta gặp được Quân phòng vệ số 3 cứ ngỡ đã bị tiêu diệt toàn bộ và cùng gia nhập vào tiền đồn.
Lũ chúng nó nhận ra sự lớn mạnh của quân ta nên đã nhắm vào hậu phương mà tập kích, nhưng hơn mười người lính nhanh nhẹn đã chấp nhận đổ máu để dụ chúng vào hẻm núi Odil. Đẩy đá lấp đường lui rồi bắn tên lửa xối xả, khiến lũ ác ma quái dị gào thét rồi chui tọt xuống lòng đất.
Ngày 22 tháng 7. Sau khi thu phục Ferman và Olga rồi tiến vào Santrea, lũ ma quỷ đông gấp ba lần liên quân đã nghiền nát những bộ xương trắng và dựng trại. Thế núi hiểm trở, dung nham tuôn chảy, chỉ riêng số người chết đuối khi vội vã vượt qua vách đá đã lên đến hàng chục.
Lũ chúng nó nhắm vào sơ hở mà lao tới, Vua Mặt Trời trong cơn thịnh nộ đã đích thân tiến công và vung mạnh thanh Thánh kiếm. Một đòn tiêu diệt hàng trăm tên, thổi bay cả nửa ngọn núi, sĩ khí quân ta dâng cao không tả xiết khiến kẻ thù khiếp sợ không dám manh động.
Ngày 29 tháng 7. Cảm thấy nguy cơ, tên thủ lĩnh gian ác bò từ dưới đất lên, tàn sát và ăn thịt binh lính. Kích thước hắn to tựa núi Thái Sơn, hình thù gớm ghiếc, sống bằng thịt người từ thuở hồng hoang nên biết nói tiếng người.
……
Thứ sức mạnh yêu ma điều khiển lũ tay sai đẩy quân ta vào vũng lầy và phá hủy căn cứ. Chúng ta không lùi bước mà vây hãm bằng một Viên trận hùng vĩ, khiến ngay cả tên thủ lĩnh cũng không thể dễ dàng cử động.
Vua Mặt Trời tỏa ra khí phách, đâm xuyên cổ hắn rồi phong ấn xuống vực thẳm sâu hun hút, tiếng reo hò vang dậy như sấm, dưới gầm trời này chẳng ai là không vui mừng….
***
Vua Mặt Trời đã ban lệnh rằng nếu muốn sống trên mảnh đất này, hãy tạo ra một Viên trận khổng lồ không bao giờ biến mất trên mặt đất để đề phòng hắn tỉnh lại.
Chúng ta tuân theo mệnh lệnh ấy, cùng với… của Laina tái thiết lại cuộc sống và… trong suốt năm trăm ngày. Khi chúng ta khẩn khoản cầu xin được tôn ngài làm chủ quân… ngài đã hứa rằng nếu lập nên đất nước mới, sẽ nhận chúng ta làm thần dân và phong làm người canh giữ vùng đất này.
“Chúng ta ghi nhớ lời hứa ấy và để tôn vinh ân nhân, đã dựng bia đá ở bốn phương Đông Tây Nam Bắc nơi cái ác ngủ say, khắc ghi lại… sự cứu rỗi của ngày xưa.”
Ánh mắt đang giải mã những dòng chữ trên bia đá của Leonardo chẳng mấy chốc đã lướt qua phần giữa và đi xuống phần dưới. Tay cậu lướt trên bề mặt bia đá, như khắc ghi từng chữ từng chữ vào đầu ngón tay.
Alex lấy chiếc máy ảnh ra, đứng ở phía sau vừa chụp vừa lướt ống kính từ phần trên cùng của tấm bia đá xuống những dòng chữ được khắc kín mít không chừa một chỗ trống. Thỉnh thoảng, hắn lại nhìn Leonardo đang đọc làu làu toàn bộ văn bia mà chẳng gặp chút khó khăn nào với ánh mắt đầy thích thú.
Trái ngược với hai người kia đang dồn hết tâm trí vào tấm bia đá, Kenis không thể lơ là cảnh giác dù chỉ một giây vì mùi hôi thối của ma thú và tiếng gầm gừ khe khẽ lẫn trong gió.
Rõ ràng bọn chúng đã đánh hơi được nơi này và đang rình rập đâu đó quanh đây, nhưng việc chúng cứ lảng vảng xung quanh mà mãi không chịu xuất hiện khiến cậu ta cảm thấy vô cùng kỳ lạ.
Trong tình thế đó, ý thức trách nhiệm của một thành viên Hội đồng thôi thúc rằng bản thân phải nắm bắt được những động tĩnh khả nghi để bảo vệ hai người kia, nên Kenis gần như chẳng để tâm được mấy đến nội dung trên bia đá.
Alex điều chỉnh khẩu độ máy ảnh rồi hạ ống kính xuống thấp hơn, mái tóc vàng óng ngay lập tức lọt vào khung hình. Theo phản xạ, hắn định nhấn nút chụp nhưng rồi ngón tay lại khựng lại, sau một thoáng đắn đo, hắn hạ chiếc máy ảnh đang kề sát mắt xuống.
Nhìn bóng lưng đang chăm chú còn hơn cả mình như bị thứ gì đó mê hoặc, ánh mắt Alex chợt dừng lại ở một câu nằm ở phần dưới mà giọng đọc của Leonardo vẫn chưa chạm tới. Lặng lẽ nhìn dòng chữ đó một lúc, hắn bâng quơ gọi Kenis đang căng thẳng tột độ ở bên cạnh.
“Nhóc con.”
Kenis quay đầu về phía hắn theo phản xạ rồi chợt giật mình. Dù đó chẳng phải cách xưng hô dễ nghe gì cho cam nên cậu ta không đáp lời, nhưng chẳng biết từ lúc nào cơ thể đã tự động phản ứng lại. Thấy vậy, Alex nhoẻn miệng cười rồi hỏi.
“Câu chuyện cổ tích lúc nãy tôi kể ấy mà. Cậu có nhớ tên mụ phù thủy trong truyện đó là gì không?”
“…Sao cơ?”
Câu hỏi bất ngờ không đâu vào đâu khiến Kenis nghiêng đầu thắc mắc. Gương mặt cậu ta cũng hơi nhăn lại, nhưng Alex chẳng hề bận tâm mà nói tiếp.
“Vì cái tên đó chẳng ăn nhập gì với nhân vật nên tôi mới nhớ, thế mà giờ lại quên béng mất rồi.”
Điệu cười nhếch mép khi nói của hắn có vẻ đầy ẩn ý và khả nghi, nhưng Kenis vừa gãi đầu vừa chớp mắt chậm rãi, bắt đầu lục lọi lại nội dung câu chuyện cổ tích từng xem hồi nhỏ.
Đã đọc từ hơn mười năm trước nên ngay cả nội dung cũng mơ hồ, nhưng câu nói của Alex về việc cái tên không ăn nhập cứ lởn vởn trong đầu, khiến một mảnh ký ức chợt lóe lên.
Đôi mắt trong veo vừa đảo lên trên giờ lại chạm mắt với Alex. Kenis nhìn vào đồng tử đang bị che khuất một nửa bởi đôi mắt híp lại của đối phương, rồi từ từ lên tiếng.
“Là Milli.”
“…….”
Cơn gió thổi từ rừng già lại một lần nữa lướt qua làm lay động vạt áo và mái tóc của họ. Nghe được câu trả lời, khóe miệng Alex nhếch lên đầy ẩn ý. Kenis chẳng hiểu đầu cua tai nheo ra sao, chỉ thấy điệu bộ đó thật đáng ngại.
Đúng lúc đó, giọng đọc của Leonardo vốn nãy giờ chỉ như âm thanh nền êm ả bên tai Kenis bỗng trở nên rõ ràng hơn hẳn. Chẳng hiểu sao ánh mắt cậu ta lại phản xạ hướng về phía cậu.
“Vua phán rằng, chúng giao tiếp bằng ngôn ngữ riêng, di chuyển như một đội quân dưới sự kiểm soát của thủ lĩnh, tuy chém giết không ghê tay nhưng đó cũng là để chúng sinh tồn. Bề ngoài trông tàn khốc là thế, nhưng nhìn sâu vào bên trong lại thấy đầy tính hy sinh.”
Leonardo vẫn đang giải mã những ký tự trên bia đá, nhìn vị trí tay cậu đặt thì có vẻ đã gần đi đến hồi kết, và cậu đang trong trạng thái hoàn toàn nhập tâm như bị hút vào dòng thời gian ấy vậy.
“Thực thể đẻ trứng được tôn sùng tựa như vua chúa, nhưng nếu không hoàn thành được nghiệp chướng của mình thì sẽ bị vứt bỏ, chúng giống con người nhưng lại chẳng phải con người. Vì thế, Vua đã ví sự chuyển động của bè lũ gian tà ấy tựa như loài ong.”
Càng xuống phía dưới, có lẽ nhờ được lớp tro núi lửa và cỏ dại che phủ nên phần bị mài mòn giảm dần và các ký tự trở nên rõ nét hơn. Nhờ vậy mà giọng đọc của cậu cũng ngày càng trôi chảy không chút ngập ngừng.
“Chính vì thế, người đã lấy tên từ chữ Melissa mang ý nghĩa là loài ong mật, và gọi kẻ thủ lĩnh của bầy đàn ấy là Millie.”
Trong khoảnh khắc ấy, Kenis giật mình thon thót rồi quay phắt lại nhìn Alex. Hắn vẫn chỉ nhìn chằm chằm vào bia đá và nở nụ cười.
Quỳ một chân trước bia đá, Leonardo cảm thấy một luồng cảm giác chạy dọc sống lưng rồi lan ra tứ chi khiến toàn thân tê rần. Chẳng rõ là hân hoan hay chấn động, nhưng cảm giác ấy ngày càng mãnh liệt khiến cậu tưởng chừng như máu đang dồn hết lên não và hơi thở trở nên dồn dập.
Dẫu vậy, đôi mắt cậu vẫn không ngừng lướt nhanh về phía cuối văn bia.
“Thực thể ấy sống cô độc suốt quãng thời gian đằng đẵng, tựa như bóng tối tuyệt đối và đơn độc, ngày nó thức giấc sẽ mang theo cơn phẫn nộ muốn nuốt chửng vạn vật, nên Vua đã ban lệnh cho hậu thế phải cẩn trọng và không được lãng quên, đồng thời đặt tên cho vùng đất này để lưu truyền mãi mãi chiến công của chúng ta.”
Nơi đây nằm ở tận cùng đại lục với hình dáng nhô ra, ba mặt giáp biển nên tựa như một hòn đảo.
Thứ đang say ngủ bên trong lòng nó chính là người mẹ của những ác linh gieo rắc sự diệt vong, và là một kẻ cai trị khác đã tồn tại từ thời cổ đại. Sự trống rỗng và nỗi sợ hãi mà nó tạo ra là vết thương lịch sử vĩnh viễn không được phép lãng quên, vì thế kể từ ngày đó, chúng ta gọi tên vùng đất này là….
Đồng tử của Leonardo chầm chậm mở lớn khi tay cậu vuốt qua phần bị che khuất. Cậu hít nhẹ một hơi, cơn gió thổi từ dãy núi tràn vào lồng ngực khiến cậu theo bản năng ngẩng đầu lên.
Trong khi đó, ở phía bên kia dãy núi, Hugo cũng cảm nhận được cơn gió tương tự và dừng lại ở câu cuối cùng chưa kịp đọc tiếp. Đôi mắt đang nheo lại của anh dần mở to, rồi anh chậm rãi ngẩng đầu nhìn lên ngọn núi hùng vĩ đang vờn mây.
Thật trùng hợp thay, hai người ở hai nơi xa cách lại cùng nhìn về một hướng vào cùng một thời điểm, và đồng thanh thốt lên.
“Là bán đảo Elder Millie.”